Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003; Luật Khiếu nại năm 2011; Luật Đất đai năm 2003; xét đơn khiếu nại của ông Nguyễn Cường, trú tại thôn Xuân Dục, xã An Phú, thành phố Tuy Hòa khiếu nại Quyết định số 2991/QĐ-UBND ngày 28/5/2014 của Chủ tịch UBND thành phố Tuy Hòa về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Cường; xét Kết luận số 02/KL-STNMT ngày 07/01/2015 của Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường và kết quả xác minh nội dung đơn của ông Nguyễn Cường; Chủ tịch UBND tỉnh kết luận như sau:
- Căn cứ khoản 5 Điều 49 của Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Những trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trường hợp sau đây: 5. Người được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành”.
Như vậy, ông Cường đề nghị cơ quan chức năng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp toàn bộ diện tích đo đạc khoảng 6.000m2 (đo đạc thực tế 6.130m2) là không có cơ sở. Vì diện tích gia đình ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 1.817m2; diện tích 750m2 nhận chuyển nhượng từ bà Nguyễn Thị Lựa được UBND thành phố Tuy Hòa đồng ý cấp bổ sung. Phần diện tích còn lại 3.563m2 hiện đang tranh chấp với hộ ông Thái Mỹ Hưng (phần diện tích này không có một trong các loại giất tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003).
- Đối với UBND thành phố Tuy Hòa không căn cứ khoản 2 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 để giải quyết tranh chấp đất giữa ông Nguyễn Cường và ông Thái Mỹ Hưng mà căn cứ khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là chưa phù hợp.
Điều 136. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại UBND xã, phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này được giải quyết như sau:
a) Trường hợp Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết; quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng;
b) Trường hợp Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; quyết định giải quyết của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là quyết định giải quyết cuối cùng.
Hơn nữa, UBND thành phố Tuy Hòa đã ra Quyết định số 4581/QĐ-UBND ngày 07/10/2013 về việc thu hồi và chỉnh lý đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp ông Thái Mỹ Hưng và vợ bà Nguyễn Thị Xem theo điểm b, khoản 2 Điều 25 Nghị định 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định (“Thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trái pháp luật thực hiện như sau: Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tự kiểm tra và phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp là trái pháp luật thì có trách nhiệm thông báo bằng văn bản tới cơ quan thanh tra cùng cấp để thẩm tra. Thanh tra cấp huyện có trách nhiệm thẩm tra đối với Giấy chứng nhận do UBND cấp huyện cấp, Thanh tra cấp tỉnh có trách nhiệm thẩm tra đối với Giấy chứng nhận do UBND cấp tỉnh hoặc Sở Tài nguyên và Môi trường cấp. Nếu qua thẩm tra có kết luận là Giấy chứng nhận cấp trái pháp luật thì cơ quan nhà nước đã cấp Giấy chứng nhận ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp”).
Từ những cơ sở nêu trên, Chủ tịch UBND tỉnh quyết định:
Điều 1. Không công nhận nội dung đơn khiếu nại đề ngày 12/6/2014 của ông Nguyễn Cường, trú tại thôn Xuân Dục, xã An Phú, thành phố Tuy Hòa khiếu nại Quyết định số 2991/QĐ-UBND ngày 28/5/2014 của Chủ tịch UBND thành phố Tuy Hòa. Vì không có cơ sở pháp luật.
Điều 2. Công nhận một phần Quyết định số 2991/QĐ-UBND ngày 28/5/2014 của Chủ tịch UBND thành phố Tuy Hòa về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Cường, là có cơ sở pháp luật.
Điều 3. Giao Chủ tịch UBND thành phố Tuy Hòa giải quyết việc tranh chấp đất đai lần đầu giữa ông Nguyễn Cường và ông Thái Mỹ Hưng với diện tích đất là 4.313m2 (chưa trừ phần diện tích nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị Lựa) nằm trong Thửa số 70, Tờ Bản đồ số 01, diện tích 14.035m2, tại Động Bồ, thôn Xuân Dục, xã An Phú, thành phố Tuy Hòa.
Đây là quyết định giải quyết khiếu nại lần 2. Nếu không đồng ý với Quyết định này, căn cứ Điều 37 và Điều 42 Luật Khiếu nại năm 2011, ông Nguyễn Cường có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Chủ tịch UBND tỉnh cũng đã yêu cầu Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Chủ tịch UBND thành phố Tuy Hòa, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, Thủ trưởng các cơ quan liên quan và ông Nguyễn Cường căn cứ Quyết định thi hành.