Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua ngày 26/11/2003; Luật Khiếu nại năm 2011; Luật Đất đai năm 2003 và năm 2013; Nghị định số 75/2012/NĐ-CP, ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại; Thông tư số 07/2013/TT-TTCP, ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính; xét đơn khiếu nại của ông Trần Hùng, trú tại thôn Chính Nghĩa, xã An Phú, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên khiếu nại Quyết định số 3685/QĐ-UBND ngày 17/7/2014 của Chủ tịch UBND thành phố Tuy Hòa; xét Kết luận số 07/KL-STNMT ngày 14/02/2015 của Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường; Chủ tịch UBND tỉnh kết luận như sau:
1- Việc ông Trần Hùng đề nghị bồi thường 4,9m2 theo giá đất ở 2.500.000 đồng/m2:
Căn cứ điểm a, khoản 7, phần C Bảng giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Phú Yên năm 2014 kèm theo Quyết định số 42/2013/QĐ-UBND, ngày 31/12/2013 của UBND tỉnh Phú Yên, cụ thể: “Đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở nhưng không được xác định là đất ở: Xác định bằng 02 lần mức giá đất trồng cây lâu năm ở vị trí 1 cùng vùng (xã, phường, thị trấn) nhưng không vượt quá giá đất ở của cùng thửa đất. Trường hợp giá đất ở thấp hơn giá đất trồng cây lâu năm ở vị trí 1 thì giá đất vườn, ao được xác định bằng giá đất trồng cây lâu năm ở vị trí 1 cùng vùng”. Hộ ông Trần Hùng được Hội đồng xét quy chủ nguồn gốc đất UBND xã An Phú công nhận phần diện tích đất trúng giải tỏa 4,9m2 loại đất BHK (đất vườn liền kề với đất ở) nên UBND thành phố Tuy Hòa tính bồi thường 02 lần giá đất trồng cây lâu năm ở vị trí 1 của các xã thuộc thành phố Tuy Hòa số tiền: 4,9m2 x 02 = 441.000 đồng là đúng quy định. Do đó, việc ông Hùng yêu cầu bồi thường diện tích 4,9m2 theo đơn giá đất 2.500.000 đồng/m2 là không có cơ sở để xem xét, giải quyết.
2- Việc đề nghị hỗ trợ phần diện tích 152,6m2 (157,5m2 – 4,9m2) theo đơn giá 30% đất ở 750.000 đồng/m2:
Theo hồ sơ đo đạt địa chính năm 1997 thì toàn bộ khu đất ông Trần Hùng nhận chuyển nhượng của 03 hộ (ông Ngô Phượng, Võ Đức Hùng, và Phan Ngọc Tri) thuộc thửa 337,338 được quy hoạch là đất quy hoạch giao thông do UBND xã An Phú quản lý. Hơn nữa, tổng diện tích hộ ông Trần Hùng nhận chuyển nhượng của 3 hộ nêu trên nhỏ hơn diện tích thực tế đang sử dụng là 118,5m2 (498,5m2 – 617m2). Căn cứ điểm a, khoản 6 Điều 38 Luật Đất đai năm 2003: “Thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai: Đất được nhà nước giao để quản lý mà để bị lấn, chiếm…”; khoản 3 Điều 82 Luật Đất đai năm 2013: “Trường hợp Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường về đất: Đất thu hồi trong các trường hợp quy định tại Điều 64 và các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 65 của Luật này”. Do đó, việc ông đề nghị hỗ trợ phần diện tích 152,6m2 (157,5m2 – 4,9m2) theo đơn giá 30% đất ở 750.000 đồng/m2 là không có cơ sở.
Từ những cơ sở trên, Chủ tịch UBND tỉnh quyết định:
Điều 1. Không công nhận nội dung đơn khiếu nại đề ngày 27/7/2014 của ông Trần Hùng khiếu nại Quyết định số 3685/QĐ-UBND ngày 17/7/2014 của Chủ tịch UBND thành phố Tuy Hòa về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Hùng, vì không có cơ sở pháp luật.
Điều 2. Công nhận nội dung Quyết định số 3685/QĐ-UBND ngày 17/7/2014 của Chủ tịch UBND thành phố Tuy Hòa về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Hùng, là có cơ sở pháp luật.
Đây là quyết định giải quyết khiếu nại lần 2. Nếu không đồng ý với Quyết định này, căn cứ Điều 37 và Điều 42 Luật Khiếu nại năm 2011, ông Trần Hùng có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Chủ tịch UBND thành phố Tuy Hòa, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, Thủ trưởng các cơ quan liên quan và ông Trần Hùng căn cứ Quyết định thi hành.