Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003; Luật Khiếu nại năm 2011; Luật Đất đai năm 2003 và năm 2013; xét đơn khiếu nại của bà Biện Thị Mỹ Dung, trú tại khu phố Chí Thạnh, thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An khiếu nại Quyết định số 707/QĐ-UBND ngày 25/6/2014 của Chủ tịch UBND huyện Tuy An; xét Kết luận số 15/KL-STNMT ngày 09/12/2014 của Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường và kết quả xác minh nội dung đơn khiếu nại của bà Biện Thị Mỹ Dung; Chủ tịch UBND tỉnh kết luận như sau:
1. Theo Bản đồ 299/TTg đo đạc năm 1993 loại đất phi lao Sổ Dã ngoại thể hiện ông Biện Ngọc Trai và Trình Văn Trí đứng tên chủ sử dụng đất; Bản đồ đo đạc năm 1997 Sổ Dã ngoại lập năm 1997 thẻ hiện loại đất trồng dương đứng tên chủ sử dụng bà Nguyễn Thị Chanh, nhưng Sổ Mục kê năm 1997 thể hiện loại đất trồng rừng sản xuất (RSM), đứng tên chủ sở hữu UBND xã; bản đồ đo đạc chỉnh lý biến động năm 2009 thuộc thửa đất 156, diện tích 1.800m2 do UBND xã quản lý, nhưng năm 2005 ông Biện Ngọc Trai (em ruột bà Biện Thị Mỹ Dung) lập thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất này, được UBND xã An Hòa trình UBND huyện Tuy An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 25/5/2006 diện tích 1.244m2, diện tích còn lại 556m2 đất (1.800m2 – 1.244m2), nhưng diện tích thực tế đang trang chấp là 489m2.
Tuy qua các lần đo đạc và quy chủ không thống nhất, kể cả bản đồ đo đạc chỉnh lý biến động năm 2009 đất này cũng do UBND xã quản lý, nhưng trên thực tế UBND xã An Hòa thừa nhận không quản lý mà do hộ gia đình ông Nguyễn Có quản lý, bà Biện Thị Mỹ Dung không có tên trong các loại hồ sơ lưu trữ, không trực tiếp quản lý canh tác từ trước cho đến nay. Hơn nữa, qua thẩm tra, xác minh và họp dân đều cho thấy khu dân cư đã đề nghị Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông Nguyễn Có (cha ruột ông Nguyễn Văn Cơ), vì đã sử dụng ổn định liên tục từ sau giải phóng 1975, được Hội đồng xét giao đất đai xã An Hòa họp ngày 18/10/2013 đề nghị công nhận phần diện tích 489m2 đất đang tranh chấp cho gia đình ông Nguyễn Văn Cơ là đúng quy định tại khoản 4 Điều 3 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ, nay là khoản 4 Điều 21 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013: “Trường hợp không có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 2 Điều này hoặc trên giấy tờ đó không ghi rõ thời điểm xác lập giấy tờ và mục đích sử dụng đất thì phải có xác nhận của UBND cấp xã về thời điểm bắt đầu sử dụng đất và mục đích sử dụng đất trên cơ sở thu thập ý kiến của những người đã từng cư trú cùng thời điểm bắt đầu sử dụng đất của người có yêu cầu xác nhận trong khu dân cư (thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố) nơi có đất”. Do đó, việc bà Biện Thị Mỹ Dung tranh chấp 489m2 với ông Nguyễn Văn Cơ là không có cơ sở.
2. Quá trình quản lý sử dụng đất tại địa phương, UBND xã An Hòa có thiếu sót trong việc kiểm tra, rà soát, dẫn đến việc đo đạc quy chủ chưa đúng thực tế để trình cơ quan có thẩm quyền chỉnh lý biến động kịp thời.
Từ những cơ sở trên, Chủ tịch UBND tỉnh quyết định:
Điều 1. Không công nhận nội dung đơn đề ngày 16/7/2014 của bà Biện Thị Mỹ Dung khiếu nại Quyết định số 707/QĐ-UBND ngày 25/6/2014 của Chủ tịch UBND huyện Tuy An về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của bà Biện Thị Mỹ Dung. Vì không có cơ sở.
Điều 2. Công nhận Quyết định số 707/QĐ-UBND ngày 25/6/2014 của Chủ tịch UBND huyện Tuy An, là có cơ sở.
Giao Chủ tịch UBND huyện Tuy An chỉ đạo UBND xã An Hòa tổ chức rút kinh nghiệm đối với việc thiếu sót trong quản lý sử dụng đất tại địa phương.
Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, Chủ tịch UBND huyện Tuy An, Thủ trưởng các cơ quan liên quan, ông Nguyễn Văn Cơ và bà Biện Thị Mỹ Dung căn cứ Quyết định thi hành.