Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua ngày 26/11/2003; Luật Khiếu nại năm 2011; Nghị định số 75/2012/NĐ-CP, ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại; Thông tư số 07/2013/TT-TTCP, ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính; Nghị định số 84/2007/NĐ-CP, ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định về quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; xét đơn khiếu nại đề ngày 22/12/2014 của ông Trần Bay khiếu nại Quyết định số 6028/QĐ-UBND ngày 03/12/2014 của Chủ tịch UBND thị xã Sông Cầu; xét Kết luận số 09/KL-STNMT ngày 20/3/2015 của Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường về kết quả xác minh đơn của ông Trần Bay; Chủ tịch UBND tỉnh kết luận như sau:
1- Diện tích 717,2m2 đất bị thu hồi tại thửa 77, trước đây thuộc phần diện tích đất hành lang an toàn giao thông tại thửa 713 (đo đạc năm 1993 theo Chỉ thị 299 TTg của Chính phủ); số diện tích này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; không có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất, nhưng hộ bà Mai Thị Xơ (nay là hộ ông Trần Bay) sử dụng trước ngày 15/10/1993, ổn định, liên tục, không tranh chấp, không lấn chiếm, nằm trong phạm vi khu dân cư nông thôn đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì việc bồi thường, hỗ trợ được thực hiện theo các quy định sau đây:
- Bồi thường về đất: Điểm c, khoản 1 Điều 44 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định: “1. Trường hợp thu hồi đối với đất sử dụng trước ngày 15/10/1993 nhưng không có Giấy chứng nhận hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai và được UBND cấp xã xác nhận đất đất đó không có tranh chấp thì việc bồi thường, hỗ trợ về đất thực hiện theo quy định sau:
c) Trường hợp đất đang sử dụng vào mục đích nông nghiệp mà người đang sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì được bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng nhưng diện tích được bồi thường, hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp…”.
- Giá đất nông nghiệp: Phần C Quyết định số 42/2013/QĐ-UBND, ngày 31/12/2013 của UBND tỉnh Phú Yên về việc ban hành Bảng giá các loại đất trên địa bàn tỉnh năm 2014 quy định: “b) Đất nông nghiệp nằm trong phạm vi khu dân cư thị trấn, khu dân cư nông thôn đã được xác định ranh giới theo quy hoạch được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; Trường hợp chưa có quy hoạch được xét duyệt thì xác định theo ranh giới của thửa đất có nhà ở ngoài cùng của khu dân cư: Xác định bằng 1,5 lần mức giá đất trồng cây lâu năm ở vị trí 1 cùng vùng (xã, thị trấn), nhưng không vượt quá giá đất ở của thửa đất ở gần nhất. Trường hợp giá đất ở thấp hơn giá đất trồng cây lâu năm ở vị trí 1 thì giá đất nông nghiệp trong khu dân cư được xác định bằng giá đất trồng cây lâu năm ở vị trí 1 cùng vùng”.
- Hỗ trợ về đất: Điểm c, khoản 2 Điều 19 Quyết định số 10/QĐ-UBND, ngày 23/4/2013 của UBND tỉnh Phú Yên về việc Ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
Điều 19: Hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư và đất vườn, ao không được công nhận là đất ở:
Hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư và đất vườn, ao không được công nhận là đất ở theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP được quy định cụ thể như sau:
2. Hộ gia đình, cá nhân khi bị thu hồi đất nông nghiệp trong địa giới hành chính phường, trong khu dân cư thuộc thị trấn, khu dân cư nông thôn; thửa đất nông nghiệp tiếp giáp với ranh giới phường, ranh giới khu dân cư (trừ diện tích đất quy định tại khoản 1 Điều này) thì ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp còn được hỗ trợ bằng tiền. Phạm vi, diện tích đất và mức hỗ trợ được quy định như sau:
c) Mức hỗ trợ được tính bằng 35% giá đất ở trung bình của khu vực có đất bị thu hồi theo giá đất do UBND tỉnh quy định và công bố áp dụng vào ngày 01 tháng 01 hàng năm.
Như vậy, UBND thị xã Sông Cầu đã bồi thường, hỗ trợ về đất cho ông Trần Bay tại thửa 77, diện tích 717,2m2 là có cơ sở pháp luật và phù hợp với Công văn số 2632/UBND-ĐTXD, ngày 07/7/2014 của UBND tỉnh Phú Yên về việc giải quyết các vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng Dự án mở rộng Quốc lộ 1A đoạn qua địa phận tỉnh Phú Yên.
2. Việc ông Trần Bay cho rằng diện tích 200m2 đất ở có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà ông được thừa kế nằm trong thửa 77 có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên được hỗ trợ 50% giá đất ở trung bình đối với đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở trong khu dân cư nhưng không được công nhận là đất ở là không đúng thực tế, không có cơ sở.
Từ những cơ sở nêu trên, Chủ tịch UBND tỉnh quyết định:
Điều 1. Không công nhận toàn bộ nội dung đơn đề ngày 22/12/2014 của ông Trần Bay, trú tại khu phố Vạn Phước, phường Xuân Thành, thị xã Sông Cầu khiếu nại Quyết định số 6028/QĐ-UBND ngày 03/12/2014 của UBND thị xã Sông Cầu về việc giải quyết khiếu nại của ông Trần Bay, vì không có cơ sở pháp luật.
Điều 2. Công nhận Quyết định số 6028/QĐ-UBND ngày 03/12/2014 của UBND thị xã Sông Cầu về việc giải quyết khiếu nại của ông Trần Bay, là có cơ sở pháp luật.
Đây là quyết định giải quyết khiếu nại lần 2. Nếu không đồng ý với Quyết định này, căn cứ Điều 37 và Điều 42 Luật Khiếu nại năm 2011, ông Trần Bay có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, Chủ tịch UBND thị xã Sông Cầu, Thủ trưởng các cơ quan liên quan và ông Trần Bay căn cứ Quyết định thi hành.